Làng nghề - Có thực sự là điểm đên hấp dẫn của du lịch Hà Nội
03/03/2015
Làng nghề là một điểm đến hấp dẫn đối với các du khách trong và ngoài nước bởi ở đó, họ được xem tận mắt hoặc tham gia quá trình tạo ra sản phẩm của làng nghề và có thể được thưởng thức tại chỗ hoặc mua sản phẩm đó về làm kỷ niệm và làm quà. Tại các làng nghề của Hà Nội, khách du lịch lại chưa tìm thấy được những đặc trưng riêng của làng nghề tạo nên sự thích thú khiến họ phải quay lại lần nữa.
Trong bối cảnh nền kinh tế mở, làng nghề truyền thống đang dần được phục hồi và lấy lại vai trò quan trọng của mình trong đời sống kinh tế -văn hoá - xã hội của mỗi quốc gia. Bản sắc riêng có, độc đáo của mỗi làng nghề truyền thống tạo nên sức hút mạnh mẽ với du khách. Phát triển du lịch làng nghề là một cách giới thiệu sinh động về đất nước và con người của mỗi vùng, miền, địa phương. Tác dụng của việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ thể hiện giá trị sản xuất các làng nghề tạo ra hàng năm, ở việc giải quyết việc làm cho lao động địa phương mà hơn thế, đây còn là một phương thức gìn giữ và bảo tồn những giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc. Hà Nội đã mở rộng địa giới hành chính và là thành phố có nhiều làng nghề nhất cả nước. Nhiều làng nghề đã có từ lâu đời và nổi tiếng trong và ngoài nước, đã được du khách trong nước và quốc tế biết đến và đã trở thành những điểm đến của khách du lịch như: khảm trai Chuyên Mỹ, sơn mài Duyên Thái, làng Lụa Vạn Phúc, mộc Chàng Sơn, rèn Đa Sỹ, đúc đồng Ngũ Xã, thêu Quất Động, ... Các địa chỉ trên thường nằm dọc các trục đường giao thông và gắn liền với những di tích lịch sử văn hóa, lễ hội là điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch phát triển các tour du lịch đến làng nghề.
Thực trạng du lịch làng nghề ở Hà Nội hiện nay:
Theo số liệu của phòng Quản lý TTCN và Làng nghề, Sở Công Thương Hà Nội, tính đến năm 2014, toàn thành phố hiện có 1.350 làng nghề, trong số đó có khoảng 200 làng nghề truyền thống và có đến ¼ trong số các làng nghề truyền thống đó có tuổi đời trên 100 năm được kết tinh từ biết bao giá trị văn hóa, lịch sử của mảnh đất kinh kỳ nghìn năm văn hiến. Đã hơn 10 năm kể từ khi thành phố Hà nội có chủ trương đưa làng nghề vào khai thác du lịch, các làng nghề trở thành điểm đến của khách du lịch vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay như làng Gốm Bát Tràng, làng Lụa Vạn Phúc, … Lĩnh vực du lịch nhiều tiềm năng này cho tới nay vẫn chưa được quan tâm khai thác đúng mức cả phía làng nghề và phía ngành du lịch.
Hiện nay, du lịch làng nghề ở Hà nội vẫn chỉ dừng ở các hoạt động tự phát, chưa hình thành được cách làm du lịch chuyên nghiệp, các làng nghề chưa có những điều kiện để trình diễn, dịch vụ phục vụ khách tham quan. Tại mỗi làng nghề tuy có bày bán các sản phẩm truyền thống nhưng chưa thể hiện rõ nét đặc trưng và sự độc đáo của sản phẩm để phân biệt với sản phẩm tương tự được sản xuất ở nơi khác. Hạ tầng văn hoá truyền thống bị phá vỡ bởi quá trình đô thị hoá, môi trường ô nhiễm do sản xuất phát triển, dẫn tới khách du lịch không có nhiều điểm để tham quan. Các làng nghề thường có hai cách ứng xử với khách du lịch: Có nơi thì cứ sản xuất bình thường và mặc cho khách thích xem gì thì xem như làng nón Chuông, gỗ Đồng Kỵ; hoặc là tự ý thức được việc phải làm du lịch, phải bán được hàng cho khách du lịch nhưng không có kiến thức đầy đủ về thị trường du lịch như làng lụa Vạn Phúc, làng gốm Bát Tràng, làng mây tre đan Chương Mỹ…
Theo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch, du lịch làng nghề Hà Nội chưa phát triển theo hướng chuyên nghiệp được một phần do cách làm du lịch ở hầu hết các làng nghề vẫn là tự phát theo kiểu “ăn xổi”, nặng tâm lý khai thác các giá trị sẵn có. Một số làng nghề không biết chiếm lĩnh thị trường đồ lưu niệm phục vụ du lịch bời chẳng ai nói với họ điều ấy. Một số các làng nghề khác rất muốn được làm du lịch, nhưng họ lại không biết làm thế nào, không có các kiến thức về du lịch, từ việc giao tiếp đến sáng tạo các sản phẩm thủ công. Họ không phân biệt được sự khác nhau của hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa phục vụ khách du lịch nên hàng cho du khách cũng chính là hàng bán ra thị trường tiêu dùng. Trong khi đó, nhu cầu của hai thị trường này lại hoàn toàn khác nhau. Và ngay trong thị trường hàng hóa cho khách du lịch thì nhu cầu của đối tượng khách du lịch đến từ các vùng khác nhau cũng khác nhau. Khách Tây Âu rất thích đồ sơn mài. Khách Nhật rất thích tranh thêu. Khách Mỹ rất thích đồ mỹ nghệ bằng gỗ, tre, rơm. Trong khi khách Hàn Quốc, Đài Loan ưa những sản phẩm tinh tế, hoa văn cầu kỳ, chi tiết thì khách châu Âu lại thích những sản phẩm đơn giản, họa tiết gọn ghẽ, thẳng thắn, sang trọng và đặc biệt quan tâm đến độ an toàn của sản phẩm, như nguyên liệu có độc hại không, vật liệu và sản phẩm có ngâm tẩm hoá chất có hại không, sản phẩm có dễ bị mốc, bong tróc trong điều kiện thời tiết lạnh không.
Bên cạnh đó, thuyết minh viên tại các làng nghề bị đánh giá là vừa thiếu về nhân lực vừa yếu về chuyên môn (theo ông Trương Minh Tiến – nguyên Phó giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Nội trong cuộc trao đổi với phóng viên báo Kinh tế và Đô thị). Sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động kinh doanh du lịch chưa cao, bởi họ chưa nhận thức được giá trị của du lịch đem lại.
Về phía ngành du lịch, hiện còn thiếu kế hoạch đồng bộ, dài hơi về làng nghề. Tuy Hà nội đã có quy hoạch làng nghề với du lịch nhưng việc quản lý làng nghề còn chồng chéo giữa địa phương, ngành có nghề truyền thống và ngành du lịch, sự quản lý không thống nhất dẫn đến không có người chịu trách nhiệm cụ thể.
Nhiều làng nghề có vị trí xa trung tâm thủ đô, giao thông chưa thuận tiện nên khó thu hút du khách. Mặc dù đã được địa phương đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường dẫn từ quốc lộ vào làng nghề, nhà chợ, nhà trưng bày triển lãm nhưng cho tới nay vẫn vắng du khách. Nguyên nhân là do việc đầu tư không đồng bộ, không có cơ chế triển khai, hoặc dự án triển khai dở dang. Hầu hết các dự án chỉ tập trung vào cơ sở hạ tầng còn các kỹ năng làm du lịch thì dân làng nghề phải tự loay hoay mày mò.
Giải pháp cho du lịch làng nghề của Hà Nội:
Một là:Để phát triển làng nghề gắn với du lịch có tính xã hội hóa cao, yếu tố hạ tầng cơ sở, giao thông chiếm vị trí rất quan trọng. Vì vậy, về phía thành phố Hà Nội cần đẩy mạnh thực hiện theo đúng “Quy hoạchphát triển nghề, làng nghề TP. Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” tại Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 02/01/2013.
Hai là: Các địa phương có làng nghề cần phối hợp với ngành Du lịch giúp dân cư tại các làng nghề hiểu ngoài làm nghề phải biết làm kinh doanh, gắn làm nghề với làm du lịch. Doanh nghiệp lữ hành và các làng nghề cần hợp tác chặt chẽ để thiết lập nên các tour tham quan làng nghề. Bài toán đặt ra cho quản lý làng nghề đã lâu nhưng chưa tìm được lời giải thỏa đáng. Địa phương cũng như các cấp quản lý cần hỗ trợ đổi mới công nghệ tại các làng nghề, nâng cao kỹ năng quản trị cho các chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất…; tổ chức cho doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm làng nghề nhằm quảng bá và xúc tiến đầu tư, liên kết kinh doanh, hợp tác sản xuất giữa các vùng và địa phương, tạo tiền đề quan trọng để các làng nghề bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa ngày càng hiệu quả, huy động cộng đồng dân cư tại làng nghề tham gia vào quá trình kinh doanh du lịch. Để khắc phục tình trạng thiếu thuyết minh viên cho làng nghề, ngành du lịch Hà Nội nên thường xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng kiến thức giới thiệu sản phẩm làng nghề cũng như văn hóa làng cho hướng dẫn viên du lịch và cả người dân địa phương.
Ba là: Dân cư tại các làng nghề cũng cần đa dạng hóa sản phẩm làng nghề, tập trung sản xuất các mặt hàng có giá trị nghệ thuật, phù hợp với thị hiếu của du khách nhưng vẫn mang bản sắc riêng thể hiện được đặc trưng của làng nghề, địa phương. Các nước như Thái Lan, Malaixia đã đạt được những kết quả khả quan trong việc phát triển du lịch gắn với nghề thủ công. Thái Lan có chính sách “mỗi làng một nghề tiêu biểu” hay “mỗi làng một sản phẩm” và người dân tại các làng nghề có thu nhập khá nhờ bán hàng thủ công truyền thống, hàng lưu niệm cho khách du lịch. Trong khi đó, tại Việt Nam, phần lớn các làng nghề đang sản xuất sản phẩm phục vụ tiêu dùng chứ chưa sản xuất sản phẩm có tính chất lưu niệm theo thị hiếu khách du lịch.
Bốn là: Môi trường tại các làng nghề hiện nay lại đặt ra vấn đề về trách nhiệm của các cơ quan chức năng. Hiện nay chịu trách nhiệm quản lý về môi trường làng nghề là Bộ Khoa học-Công nghệ chứ không nằm ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Việc xử lý môi trường trong làng nghề cần được bắt đầu ngay từ khi lập quy hoạch chứ không nên chờ phát sinh ô nhiễm rối mới xử lý.
KẾT LUẬN:
Làng nghề truyền thống được xem như một loại tài nguyên du lịch nhân văn có ý nghĩa đặc biêt quan trọng, bởi các sản phẩm của nó luôn bao hàm cả giá trị vật thể và phi vật thể. Du lịch làng nghề những năm gần đây đang được nhiều nước trên thế giới xem là một loại hình du lịch hấp dẫn, mang lại nhiều lợi ích cả về kinh tế và văn hóa. Du lịch làng nghề ở Việt nam nói chung và Hà Nội nói riêng có nhiều lợi thế, tiềm năng để phát triển. Vấn đề là tìm ra và ứng dụng các phương hướng, biện pháp nhằm phát triển du lịch làng nghề ở nước ta không chỉ thuộc trách nhiệm của cơ quan quản lý ngành du lịch, mà còn cần sự phối hợp của nhiều ban ngành như các cơ quan quản lý du lịch, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thông; Bộ Tài Nguyên – Môi trường; Bộ Công thương cũng như sự tham gia của chính dân cư trong mỗi làng nghề. Phát triển, quảng bá du lịch làng nghề mà vẫn gìn giữ được bản sắc, những nét tinh hoa của làng nghề cũng như môi trường sống của người dân chính là góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững của Thủ đô Hà Nội cũng như của cả nước.
Trần Thúy Nga – Khoa Tài chính – Kế toán Du lịch
Tài liệu tham khảo:
1.Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 02/01/2013 về “Quy hoạchphát triển nghề, làng nghề TP. Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.
2.Quyết định 3455/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành ngày 20/10/2014 về việc Phê duyệt “Chiến lược marketing du lịch đến năm 2020”.