Giải thích nhân loại học đối với tục kiêng ăn thịt lợn
16/07/2015
Tóm tắt: Ở hầu hết các dân tộc trên thế giới, lợn là nguồn thịt thực phẩm chủ yếu, tuy nhiên, một số dân tộc lại kiêng ăn thịt lợn. Hiện tượng này đã thu hút sự chú ý của đông đảo các nhà nhân loại học và làm nên một chủ đề nóng của nhân loại học đương đại. Các nhà nhân loại học đã từ các góc độ khác nhau, vận dụng các phương pháp khác nhau để truy tìm căn nguyên của cấm kỵ này. Một số nghiên cứu của họ đã trở thành kinh điển của nhân loại học.
Theo suy luận của các nhà khoa học, các nhà khảo cổ và các nhà sử học, lợn đã xuất hiện trên trái đất từ ít nhất 45 triệu năm về trước. Còn căn cứ trên những động vật hóa thạch khai quật được thì lợn răng nanh dài (Mamoswine) có lẽ chính là tổ tiên của loài lợn ngày nay. Căn cứ vào phát hiện về lợn hóa thạch phát hiện ở Ấn Độ thì nguồn gốc của loài lợn ngày nay có thể là ở Ấn Độ, cách ngày nay khoảng 50 nghìn năm. Trong các bích họa thời tiền sử vẽ trên hang động Altamira ở Tây Ban Nha có rất nhiều miêu tả về lợn. Những bức tranh này là kiệt tác của 40 nghìn năm về trước, và là những bức tranh lợn cổ xưa nhất mà chúng ta được biết. Tàn tích của bộ xươnglợn nhà khai quật được tại vùng Cayonu miền nam Anatolia Thổ Nhĩ Kỳ cách nay khoảng hơn 9000 năm, là chứng cứ nuôi lợn xưa nhất tính cho đến thời điểm hiện tại. Lợn có tốc độ sinh sản rất nhanh, nhất là, sự tồn tại của lợn không có vai trò gì khác ngoài việc cung cấp nguồn dinh dưỡng cũng như đáp ứng nhu cầu thưởng thức ẩm thực cho con người. Trong toàn bộ thế giới động vật, lợn là một trong những loài có hiệu suất chuyển hóa carbohydrate thành protein và chất béo cao nhất.
Vậy mà giáo dân của một số tôn giáo cũng như dân chúng ở một số dân tộc trên thế giớilại không ăn thịt lợn, thậm chí không được đụng vào lợn cả khi sống và đã chết. Trong tác phẩm Lịch sử của mình, nhà sử học Hy Lạp Herodotus đã nói: “Đối với người Ai Cập, lợn là một loài súc vật không sạch sẽ….. Nếu một người Ai Cập trên đường đi ngẫu nhiên đụng phải một con lợn, anh ta sẽ phải lập tức chạy đến bờ sông, để nguyên cả quần áo mà nhảy xuống”. Nhiều nhà nhân loại học đã đặc biệt hứng thú đối với hiện tượng này, và cấm kỵ ăn thịt lợn đã trở thành vấn đề chung mà các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng quan tâm.
1
Chúng ta đều biết việc kiêng ăn thịt lợn có liên quan đến giáo luật của đạo Islam. Thánh Allah đã phán ở nhiều đoạn trong Thiên kinh Coran: "Cấm các ngươi (dùng làm thức ăn) những thứ này: thịt súc vật chết, máu, thịt heo..." (Qur'an 5:3). Cho nên người Hồi Giáo nghiêm cấm ăn thịt lợn, máu và động vật tự chết.
Tín đồ Do Thái giáo cũng cấm ăn thịt lợn. Thực ra, kiêng ăn thịt lợn là một cấm kỵ ăn uống có lịch sử lâu đời mà các dân tộc trên bán đảo Ả Rập phổ biến tuân thủ. Thế kỷ thứ VI Tr.CN, Do Thái giáo ra đời ở sa mạc Sinai thuộc tây bắc bán đảo Ả Rập. Đầu thế kỷ thứ VII, đạo Islam lại được sinh ra ở Mecca (Makkah) thuộc bán đảo Ả Rập. Đểthích ứng với tập tục kiêng ăn thịt lợn đã tồn tại lâu đời trong dân chúng nơi đây, hai tôn giáo này ngay từ khi ra đời đã liệt nó vào giới luật và đưa vào kinh Cựu Ước và Kinh Coran. Giới luật này đã ra sức tuyên truyền về sự bẩn thỉu, xấu xí và lười biếng của lợn và làm hình thành sự ghét bỏ, kỳ thị trong giáo dân, tạo thành một kiểu phản xạ có điều kiện đặc thù về mặt sinh lý đến nỗi giáo dân Islam không những không ăn thịt lợn, nuôi lợn, dùng mỡ lợn để xào nấu thậm chí còn kiêng nói từ “lợn”, gọi thịt lợn và mỡ lợn là “đồ mặn”. Điều này có thể thấy ngay trong cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở An Giang – Việt Nam: họ cũng coi lợn là con vật bẩn thỉu nhất trần gian mà nếu lỡ ăn phải họ sẽ cảm thấy bị lợm giọng và có thể bị nôn mửa; người nào ăn thịt lợn cũng bị cộng đồng coi là thuộc loại “ha-răm”, tức không còn là tín đồ Hồi giáo nữa .
Được hậu thuẫn bởi thế lực tôn giáo lớn mạnh của đạo Islam, tục ăn thịt lợn sau khi được Islam hóa đã không ngừng lưu truyền và lan rộng. Tục kiêng ăn thịt lợn một khi thông qua “Thánh Allah” liền trở thành mệnh lệnh, thành lời hiệu triệu thần thánh, thành giáo điều mà bất cứ dân tộc nào, ở bất cứ đâu, chỉ cần theo đạo Islam đều phải tuân thủ. Dân chúng ở một số nước Á Phi (trừ Tây Á, Bắc Phi) vốn dĩ từng theo đạo Phật hoặc tôn giáo khác, sau khi chuyển sang theo đạo Islam mới bắt đầu kiêng ăn thịt lợn, vì vậy, nguyên nhân trực tiếp của tục kiêng ăn thịt lợn ở đây là từ đạo Islam, song, xét về nguồn gốc sâu xa, tập tục này chính là từ phong tục cổ xưa của Ả Rập.
Đã từng có rất nhiều giải thích sai lầm về việc kiêng ăn thịt lợn của đạo Islam và Do Thái giáo, đáng kể nhất là thuyết cho rằng lợn là totem của dân tộc Do Thái và có liên quan với phong tục sùng bái tổ tiên của họ. Thực ra, loài lợn từ xa xưa đã trở thành gia súc được thuần hóa trong cộng đồng cư dân nông nghiệp. Người Do Thái là một dân tộc du mục, họ không thể thờ lợn làm vật tổ của bộ lạc được. Một số nhà nhân loại học theo hướng tư duy này đã đi đến quan điểm cho rằng, việc kiêng ăn thịt lợn đã tạo ra một đường biên văn hóa rạch ròi cho người Do Thái và trở thành ký hiệu văn hóa mà cộng đồng cùng chia sẻ. Đường biên văn hóa giúp “phân biệt họ với các dân tộc láng giềng”, đặc biệt là những láng giềng không có quan hệ hữu hảo với họ. Sau khi người Do Thái di tản đến các quốc gia Kito giáo ăn thịt lợn, cấm kỵ này cũng trở thành ký hiệu (signs) cho tộc tính của người Do Thái. Trước quan điểm xem ra rất có lý này, nhà nhân loại học Marvin Harris đã trả lời bằng thực tế: “Trong một số nền văn hóa khác nhau ở khu vực Trung Đông đều thấy xuất hiện tục kiêng ăn thịt lợn… Chí ít có ba nền văn minh quan trọng của Trung Đông, đó là người Phoenicia, người Ai Cập và người Babylon đều kiêng lợn không khác gì người Israel [tức người Do Thái]”. Và như vậy, không thể coi tục kiêng ăn thịt lợn là ký hiệu tộc người của người Do Thái.
Nhiều nhà nhân loại học lại dựa vào tín điều mà giáo luật tôn giáo đã tuyên bố, cho rằng lợn dơ bẩn, không thanh khiết, từ đó đưa ra quan điểm cho rằng, việc kiêng ăn thịt lợn xuất phát từ một số tập tính của loài vật này. Lợn ăn phân của người, lại thích lăn lộn trong đống dơ bẩn do chúng thải ra, không thể trở thành một món ăn khoái khẩu được. Tuy nhiên, điểm khó thuyết phục của quan điểm này là: Nếu tất cả mọi người bẩm sinh đã ghét ăn thịt lợn, vậy thì trước đó [trước khi bị cấm] sẽ chẳng có ai nuôi lợn làm gì, và trên toàn thế giới cũng chẳng đến nỗi có vô số người đam mê món này đến thế. Thực tế cũng cho thấy, chính vì không thể tìm được môi trường ẩm ướt để hạ nhiệt cho cái thân thể không lông không mồ hôi của mình nên lợn mới phải dầm mình trong đống dơ bẩn của bản thân nó. Ngoài ra, lợn cũng không phải là loài gia súc duy nhất ăn phân của người (bò và gà về mặt này cũng không hề thua kém). Nhà nhân loại học người Anh Edmund Ronald Leach đã nói: “Mọi người vẫn thường cho rằng lợn ăn rác rưởi, nhưng trên thực tế, chó cũng như vậy. Chúng ta không có lý do gì để chụp cho loài lợn cái mũ ‘dơ bẩn nhất’ trong khi lại coi loài thú cưng (ám chỉ chó) là của báu!”
Năm 1894, y học hiện đại đã phát hiện ra quan hệ lâm sàng giữa bệnh Trichinella spiralis (bệnh giun xoắn, sán dây lợn) với thịt lợn chưa chín. Các nhà thần học đã lợi dụng phát hiện này để biện hộ cho giáo luật kiêng ăn thịt lợn trong Cựu ước, cho rằng, “không phải Thượng Đế tỏ ý ngăn cấm người Do Thái ăn thịt heo chỉ vì đó biểu hiện được quyền lực của Ngài mà còn vì lẽ thịt heo không phải là một thức ăn tinh khiết cho con người" .Tuy nhiên, thuyết này nhanh chóng bị chìm đắm sau đó bởi quá nhiều lỗ hổng của nó. “Phương pháp đề phòng bệnh giun xoắn không phải là cấm ăn thịt lợn mà là không ăn thịt lợn chưa được nấu chín. Chỉ cần một khuyến cáo đơn giản: ‘Mọi người không nên ăn thịt lợn chưa chín!’ là đủ”. Hơn nữa, các nghiên cứu bệnh dịch học ngày nay đã cho thấy, nuôi lợn ở những vùng có khí hậu nóng bức sẽ rất ít truyền nhiễm bệnh giun xoắn. “Mặt khác, những con vật bẩm sinh ‘sạch sẽ’ như bò, cừu và dê lại chính là môi giới truyền nhiễm bệnh nhiệt thán, sốt Địa Trung Hải và các căn bệnh khác; những bệnh dịch này còn nguy hiểm hơn bệnh truyền nhiễm do lợn gây ra” .
2
Giữa thế kỷ XX, tục kiêng ăn thịt lợn trở thành một điểm nóng của nhân loại học. Với những phương pháp, giới nhân loại học đã có những giải thích mới mẻ cho hiện tượng này. E.R. Leach đã thanh minh cho lợn:
Tôi cho rằng chúng ta có tội với loài lợn. Loài cừu dù sao còn có thể cung cấp lông, bò sữa còn có thể cho sữa, gà còn có thể đẻ trứng, nhưng chúng ta nuôi lợn lại chỉ có một mục đích duy nhất là giết và ăn thịt chúng. Đây là một chuyện đáng để hổ thẹn. Vậy nhưng sự hổ thẹn đó lại lập tức bị chuyển giao, đổ lên đầu lũ lợn. Ngoài ra, ở nông thôn nước Anh, chuồng lợn toàn làm ở sân sau. Vị trí này khiến nó được gần gũi với các thành viên trong gia đình hơn những con vật nuôi để ăn thịt khác. Lợn giống như chó vậy, sống nhờ cơm thừa canh cặn của chủ. Giết và ăn thịt “đồng bọn ăn chung” với mình quả thực là một sự phỉ báng.
Sau khi phân loại vật nuôi ở châu Âu và các nơi khác, Leach đã rút ra kết luận: Những động vật càng gần gũi với con người thì càng không thể bị ăn và ngược lại, những động vật càng xa cách với con người thì càng dễ bị ăn thịt. Ví dụ như người Kachin ở đông bắc Myanmar chỉ khi hiến tế mới ăn thịt lợn, còn thường ngày thì kiêng. Lợn và chủ nhân của nó cùng sống trong một ngôi nhà. Từ “wa” tức “lợn” trong tiếng Kachin cũng để chỉ người, cha và răng. Vậy là, lợn đã tách ra khỏi những con vật thông thường khác, vừa là một loài gia súc, vừa “gần gũi với các thành viên trong gia đình”, gia nhập vào cuộc sống của mọi gia đình, nhưng nó lại không thể quy thuộc về phạm trù nào đó một cách rõ ràng, nó ở vào trạng thái nước đôi mập mờ, trở thành đối tượng của cấm kỵ . Ở đây, nhận thức của nhân loại học biểu tượng về đối tượng của cấm kỵ đã tách rời khỏi lịch sử và bài trừ ngữ cảnh văn hóa cụ thể. Đây chính là một nhược điểm chí mạng của nó, khiến diện thích ứng của nó phải chịu sự hạn chế rất lớn. Những cấm kỵ ăn uống do các sự kiện phát sinh ngẫu nhiên và quan niệm tín ngưỡng dẫn đến sẽ không thể được dung nạp vào hệ thống phân loại của họ.
Nhà nhân loại học người Mỹ Margaret Mead từng chỉ ra rằng, loài người đã chọn lựa thức ăn trong vô vàn những thứ có thể ăn được mà môi trường tự nhiên cung cấp đồng thời sử những phương pháp kỹ thuật mà mình có thể nắm bắt để đạt được nguồn thức ăn đó. Sự sinh tồn của loài người hiển nhiên phải dựa vào việc ăn uống nhằm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng. Tuy nhiên, mức độ đáp ứng những nhu cầu này ở các xã hội khác nhau là có sự khác nhau cả về số lượng và chất lượng. Nhà nghiên cứu Liên Xô С.А.Токарев cho rằng: “Việc cấm giết, cấm ăn thịt lợn nuôi là do lợn là loài gia súc ‘định cư’ điển hình, thuộc về các cư dân nông nghiệp. Mà các cư dân du mục thì lại luôn có cái nhìn thù địch đối với cư dân nông nghiệp”. Có thể “yêu ai yêu cả đường đi...” thì cớ gì không thể “ghét người ghét luôn cả lợn”! Có thể thấy, những cấm kỵ trong tôn giáo phần lớn đều ra đời bởi chính những nhu cầu xuất phát từ môi trường sống của con người.
Theo các số liệu khảo sát, từ 4000 Tr.CN, người Semitestrên thảo nguyên của bán đảo Ả Rập sống cuộc sống du mục, hơn nữa chủ yếu nuôi lạc đà và dê, không nuôi lợn. Hậu duệ của họ vào khoảng 3000 năm Tr.CN bắt đầu ngược lên phía bắ, di tản đến lưu vực Lưỡng Hà ở Trung Cận Đông và sông Nin ở Ai Cập, hòa huyết với thổ dân địa phương. Hậu duệ của họ là: người Ai Cập, người Akkad, người Amour, người Arama, người Canaan, người Hebrew và cả những người vẫn lưu lại bán đảo Ả Rập tức người Ả Rập ngày nay. Họ có cùng huyết thống, cùng nguồn gốc ngôn ngữ, hơn nữa đều phổ biến nuôi lạc đà, dê, bò, lừa. Lợn rất hiếm gặp tại vùng đất du mục này. Trong điều khoản của Bộ luật Babylon, liên tục nhắc đến bò, dê, lạc đà và chỉ có một hoặc hai chỗ nhắc đến lợn. Trong gần 30 tài liệu lịch sử cổ đại của Trung Cận Đông và Ai Cập, cũng chỉ có một hai chỗ nhắc đến lợn. Trong các hình vẽ minh họa về vật săn, cống phẩm, rồi tranh khắc, bích họa... đều không thấy có lợn, trong khi những con vật khác như bò, cừu, lạc đà thì nhiều vô kể. Người Bedouin (người du mục) coi loài lợn hiếm hoi này không khác gì những con vật đáng ghét là chim ưng, chim sấm, rắn rết và côn trùng vậy và họ không thèm ăn chúng. Việc dâng hiến súc vật lên thần thánh trong thời cổ đại là một hiện tượng vô cùng phổ biến. Theo những ghi chép trong tư liệu lịch sử của vùng này thì: Súc vật hiến thần đa phần dùng bò và dê chứ không dùng lợn. Điều này hoàn toàn khác với cư dân nông nghiệp, chủ yếu dùng lợn để tế thần. Từ đó có thể thấy, ghét lợn là một quan niệm của người Ả Rập, Bắc Phi và Tây Á cổ; nó ra đời trong một điều kiện sản xuất vật chất nhất định, trong môi trường địa lý nhất định và dần trở thành tập quán sinh hoạt kiêng ăn thịt lợn của cư dân các khu vực này. Nó hoàn toàn không hề liên quan đến đạo Islam ra đời mãi mấy nghìn năm sau đó.
Khoảng thế kỷ thứ V trước công nguyên, trong kinh Cựu ước do người Do Thái cổ ở bờ đông Địa Trung Hải viết đã liệt cấm ăn thịt lợn, tiết và động vật tự chết vào trong cấm kỵ của đạo Do Thái. Thế kỷ thứ VII khi Muhammad sáng lập ra đạo Islam, bắt chước tập tục của người Ả Rập, thuận theo điều kiện kinh tế khách quan của bán đảo Ả Rập đồng thời tiếp thu giới luật của đạo Do Thái cũng đã liệt thịt lợn vào trong danh sách đồ ăn cấm kỵ trong Kinh Coran. Từ đây có thể thấy rằng, không ăn thịt lợn ban đầu vốn là một tập tục, sau đó mới được nâng cấp lên thành giới luật tôn giáo.
Nhà nhân loại học tôn giáo người Anh Mary Douglas đã đưa ra sự giải thích hoàn toàn mới mẻ về nguyên nhân cấm ăn thịt lợn. Trong cuốn Sạch sẽ và nguy hiểm, bà đã giải thích hiện tượng thức ăn cấm kỵ ghi chép trong Kinh Thánh. Leviticus như sau:
[Trong Kinh Thánh. Leviticus] Một số động vật nào đó….thích hợp để đàn ông ăn, và một số khác thì thích hợp cho phụ nữ ăn. Lại còn một số thích hợp cho trẻ nhỏ ăn. Những động vật thích hợp cho người mang thai ăn cũng được quy định. Những loài động vật còn lại thì hoàn toàn bị coi là không thể ăn được. Dựa theo hệ thống phân loại của họ thì những động vật bị họ loại ra ngoài danh sách, không thích hợp cho đàn ông và phụ nữ ăn, kết quả đều là những động vật không thể phân loại sắp xếp được một cách rõ ràng. Phương pháp phân loại động vật của họ tách động vật hoạt động ban đêm với động vật hoạt động ban ngày; Tách động vật hoạt động trên mặt đất (chim, sóc và khỉ) với động vật hoạt động dưới lòng đất; Động vật hoạt động dưới nước và động vật hoạt động trên cạn cũng bị phân tách. Dựa vào cách phân loại trên thì những động vật không thể sắp xếp phân loại một cách rõ ràng đều bị coi là những động vật quái dị bất thường, hơn nữa đều bị cho là không thể ăn được.
Để giải thích rõ cho luận điểm của mình, bà đã nghiên cứu lại “vấn nạn cổ xưa” trong Kinh Thánh học, tức giới luật ăn uống. Bà cho rằng, bản chất của giới luật là đề cao trật tự, phủ định sự hỗn loạn: những phương thức hành vi chuẩn xác được coi là thần thánh, còn những phương thức hành vi mâu thuẫn hoặc không chuẩn xác là làm trái thần thánh. Làm trái thần thánh sẽ bị nghiêm cấm. Do đó những hành vi mà biểu hiện và thực chất mâu thuẫn nhau nhưtrộm cướp, nói dối, nhân chứng giả, lường thưng tráo đấu (lừa dối người mua), giả nhân giả nghĩa (như mồm thì mắng nhiếc người điếc nhưng mặt thì vẫn giả bộ tươi cười), ngấm ngầm thù hận anh em… đều bị liệt vào danh sách cấm kỵ.
Tương tự, những đồ ăn không sạch sẽ cũng là “một sản phẩm phụ của sắp xếp hệ thống và phân loại sự vật”. Trong quá trình khai thiên lập địa của kỷ sáng thế, một bản vẽ phác thảo sơ lược về ba khu vực trên mặt đất hợp thành đã được khái quát ra: 1. Thượng đế gọi đất liền là “mặt đất”; 2. Chúa sáng thế gọi vùng nước tập hợp lại với nhau là “đại dương”; 3. “Tầng không bao la phía trên mặt đất” sau này được gọi là trời. Ba khu vực này đều sinh tồn các chủng loại sinh vật khác nhau, trong mỗi một chủng loại, động vật sạch sẽ và bẩn thỉu đều được quy định rõ. “Đây là quy định đối với thú, cũng là quy định đối với chim muông gia cầm, là quy định đối với mỗi loài sinh vật sinh sống trong nước, đồng thời cũng quy định với toàn bộ các loài bò sát sống trên đất liền. Định ra những quy định này chính là để phân tách động vật sạch sẽ và động vật bẩn thỉu”. Trên bầu trời là loài chim có hai chân và bay lượn bằng hai cánh. Dưới nước là loài cá bơi lội với vây và vảy. Trên đất liền là loài động vật chạy nhảy với bốn chân. Bất kể loài sinh vật nào, chỉ cần “sự bố trí” của nó không phù hợp với phương thức hoạt động chuẩn xác trong chủng loại thì chính là đi ngược với thánh thần. Người nào tiếp xúc với chúng liền mất đi tư cách vào thánh điện.
Theo tiêu chuẩn này, sinh vật ở dưới nước chỉ cần có vây và vảy thì đều có thể ăn. Những loài không có vây và vảy (như rùa) sẽ khiến người ta ghét bỏ. Sinh vật đã có bốn chân lại còn biết bay (như dơi) bị coi là không sạch sẽ. Ngoài ra, động vật bò sát vừa không phải cá cũng chẳng phải chim, động vật lưỡng thê vừa có thể sống trong nước lại cũng có thể sống trên đất liền, một số loài côn trùng tuy không phải chim nhưng lại biết bay đều là những loài không sạch sẽ. Tất cả những thứ không sạch sẽ này đều bị cấm kỵ. Đối với vấn đề này, Kinh Thánh - Leviticus đã diễn tả khá cụ thể:
Loài cá có vây có vảy, các ngươi có thể ăn, nhưng loài cá không có vây, không có vảy, các ngươi không thể ăn. Các ngươi phải coi chúng là thứ thịt không sạch sẽ, không thể ăn được, ngay cả sờ vào xác chúng cũng không được.
Những loài côn trùng có cánh, trừ loài biết nhảy đều là thứ không sạch sẽ.
Chuột chũi, chuột nhà, chuột đồng và thằn lằn đều phải coi là thứ bẩn thỉu. Ai động vào người chúng hoặc xác chúng, người đó sẽ bị bẩn thỉu đến tối.
Những côn trùng nhỏ trên mặt đất, bất luận là bò bằng bụng hay bằng bốn chân, hoặc rất nhiều chân đều không thể ăn. Các ngươi không được để chúng làm dơ bẩn bản thân.
Hiển nhiên, quyết định thuộc tính cấm kỵ của một loài sinh vật không nằm ở bản thân nó là sạch hay bẩn mà nằm ở việc nó có làm xáo trộn giới hạn và phân loại của sự vật hay không. Ví như, thứ bài tiết hoặc các vật tiết ra từ cơ thể người nói chung đều trở thành đối tượng bị nghiêm cấm, đặc biệt là phân, nước tiểu, tinh dịch, kinh nguyệt, tóc bị cắt ra, mẩu móng tay, cáu bẩn của cơ thể, nước bọt… Điều này phù hợp với lý luận cấm kỵ. Những vật chất này trên phương diện căn bản nhất luôn lửng lơ không rõ ràng, ví như phân, nước tiểu, tinh dịch…, vừa là của mình lại không phải của mình. Bất kỳ thứ gì có khả năng tạo ra sự hỗn loạn, tạo ra trạng thái lửng lơ không rõ ràng đều bị cấm kỵ.
Thịt lợn là một loại thức ăn, nhưng người Do Thái và giáo dân Islam lại tuyệt đối không ăn nó, mấu chốt là vì nó có tính chất lửng lơ không rõ ràng, vì nó làm xáo trộn phạm trù phân loại sinh vật của Kinh thánh. Phàm những thứ “mang tính giáp ranh, lửng lơ không rõ ràng, nằm giữa sức mạnh của thần và người thì những cấm kỵ liên quan đến chúng là cực kỳ mãnh liệt, thậm chí còn vượt qua cả bản thân thần linh”.
Đối với những phân tích của Mary Douglas, Marvin Harris đã ứng dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật văn hóa để phản bác:
Bà (chỉ Mary Douglas) cho rằng thực chất của bẩn thỉu chính là “khác thường”. Lợn không chỉ khác thường, nó tưởng chừng như không thể phân loại. Vật như vậy vừa bẩn thỉu lại vừa nguy hiểm, do đó mà bị người ta ghét bỏ, bị cấm không được ăn.
Harris cho rằng Mary Douglas đã né tránh một vấn đề cơ bản: Tại sao lại có cách phân loại này trong Kinh Thánh?
Và từ góc độ sinh thái học, ông đã phân tích: Những con vật mà người Israel cổ đại nuôi như bò, cừu, dê, chính là nguồn cung cấp thức ăn quan trọng nhất của khu vực Trung Đông cổ đại. Thức ăn của chúng là những thực vật giàu chất xơ. Chúng không tranh thức ăn với con người mà ngược lại còn thông qua cung cấp phân bón và sức kéo để thúc đẩy phát triển nông nghiệp. Ngoài ra chúng còn là nguồn cung cấp lông, nguyên liệu may quần áo cho con người. Da chúng có thể làm giày và công cụ cưỡi ngựa. Lợi ích thu được từ việc nuôi lợn còn xa mới theo kịp nuôi động vật thuộc loài nhai lại. Lợn không cho sức kéo, không cho sữa, lông và da không thích hợp cho dệt may và làm quần áo. Phân của lợn tuy có thể bón ruộng, nhưng đối với thảo nguyên mênh mông của người du mục thì ích lợi không lớn. “Việc cấm ăn thịt lợn của người Israel cổ đại, trên thực chất là một kiểu lựa chọn của lợi ích và giá thành”, “chẳng có quần thể du mục sống ở vùng khô hạn nào lại nuôi lợn cả. Lý do hết sức đơn giản: Rất khó để bảo vệ cho đàn lợn khỏi sự uy hiếp của nắng nóng. Khoảng cách xa xôi trong mỗi lần di chuyển lại thiếu thốn nước dùng”.
Cần phải nói rõ rằng, từ hàng vạn năm về trước, rất nhiều nơi ở Trung Đông bao gồm cả nơi cư trú của người Israel đều đã từng nuôi lợn với số lượng lớn. Sau này, cùng với mật độ nhân khẩu không ngừng tăng lên, môi trường sinh thái dần phát sinh biến đổi lớn, “từ rừng rậm đến đất canh tác, đất chăn thả, thậm chí là sa mạc, mỗi một giai đoạn diễn tiến đều càng trở nên có lợi đối với việc nuôi động vật nhai lại mà bất lợi đối với việc nuôi lợn”. Do điều kiện sinh thái trở nên không thích hợp với việc nuôi lợn, bản thân chúng lại không có những ưu thế khác khiến người Israel không thể bỏ qua mà ngược lại, những thức ăn mang tính thực vật để nuôi lợn cũng là thứ mà con người cần ăn. Trong thời kỳ mà thức ăn không được phong phú đó, liền nảy sinh sự cạnh tranh sinh tồn giữa con người và loài lợn. Do vậy, địa vị của lợn trong khu vực Trung Đông tất nhiên phải giảm đi, trở thành loài động vật hạ đẳng nhất. Cấm kỵ đối với lợn của đạo Islam trên thực tế là sự duy trì và lớn mạnh của quan niệm tập tục vốn có. Chính vì vậy, giáo luật này của đạo Islam chỉ thích ứng mà không không làm ảnh hưởng đến cuộc sống của giáo dân, nó trở thành một sinh hoạt ẩm thực cố hữu mà tín đồ Hồi giáo không cần phải thay đổi, nhất là khi họ chủ yếu cư trú ở những vùng khô nóng, rất cần nguồn thực phẩm và nguyên liệu mà bò, cừu, dê đem lại...
Bài viết: ThS. Bùi Thị Thanh Hường
ThS. Trần Hữu Nhân
Khoa Quản trị chế biến món ăn
CHÚ THÍCH:
1. Xem thêm: Nguyễn Đức Toàn: Ảnh hưởng tôn giáo đối với tín ngưỡng của người Chăm ở Việt Nam, LATS Dân tộc học, Tp. Hồ Chí Minh, 2002.
2. E. R. Leach: “Nhân loại học ngôn ngữ: phạm trù động vật và lời chửi” – trong: Tuyển tập nhân loại học tôn giáo phương Tây thế kỷ XX, Tam Liên thư điếm, Thượng Hải 1995.
3. Xin xem: “Vì sao người MUSLIM không ăn thịt heo?” Nguồn: http://chanlyislam.net/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=27
4. Marvin Harris: Nguồn gốc văn hóa, Hoàng Tình dịch, Nxb. Hoa Hạ, Bắc Kinh, 1988.
5. E. R. Leach, Political Systems of Highland Burma: A Study of Kachin Social Structure (Boston: Beacon, 1965 [1954]).
6. Semites có nghĩa là "con cháu của Shem" (Semites: Descendants of Shem) – tức con trai lớn của ông Noah, sau đại hồng thủy trở thành tổ tiên của loài người – Kinh Cựu ước.
7. Xin xem tài liệu tiếng Việt: Kinh Thánh Cựu Ước Lêvi ; Bản dịch Việt Ngữ của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ - - Chương 11 - III. Luật Liên Quan Ðến Cái Thanh Sạch Và Cái Ô Uế; Nguồn: http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible/levi/levi11.htm