Thực trạng tác động của thuế, phí, lệ phí tới sự phát triển Du lịch Hà Nội
30/11/2015
Thuế, phí, lệ phí là công cụ quan trọng để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung và đối với sự phát triển ngành du lịch nói riêng. Những năm qua, các chính sách thuế, phí lệ phí đã có những tác động đến sự phát triển của du lịch Hà Nội. Cụ thể:
1. Tác động của thuế
Các quy định mới về thuế thời gian qua đã giúp các doanh nghiệp cả nước nói chung và doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội nói riêng giảm các chi phí tuân thủ thủ và gánh nặng về thuế. Cụ thể:quy định cho phép doanh nghiệp kê khai thuế điện tử và nộp thuế bằng phương thức chuyển khoản đã giúp các doanh nghiệp giảm đáng kể các chi phí cho hoạt động kê khai, nộp thuế. Quy định hỗ trợ doanh nghiệp làm thủ tục kê khai nộp thuế giúp các doanh nghiệp hiểu rõ và kê khai thuế đúng quy định, tránh được sai sót, giảm rủi ro xử phạt không đáng có, góp phần giảm chi phí tuân thủ thuế cho doanh nghiệp.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp:
Tính đến cuối năm 2013, Hà Nội có 1.615 doanh nghiệp du lịch, trong đó 595 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, 1000 doanh nghiệp lữ hành nội địa, 20 doanh nghiệp và hộ cá thể kinh doanh vận chuyển khách du lịch. Theo khoản 6 điều 1 Luật số 32/2013/QH13 - Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, ban hành ngày 19/6/2013, có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, các cơ sở hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch áp dụng mức thuế suất thuế TNDN là 22% và doanh nghiệp nhỏ và vừa mức thuế suất là 20%. Nhà nước đã từng bước điều chỉnh giảm dần mức thuế suất phổ thông từ 32% (luật thuế TNDN năm 1997) xuống 28% (luật thuế TNDN năm 2003), năm 2008 tiếp tục điều chỉnh giảm xuống 25% và giảm sâu xuống còn 22% năm 2014. Việc giảm thuế suất thuế TNDN và nới rộng một số khoản chi phí tính thuế trước mắt sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước song số tiền thuế cắt giảm sẽ tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp du lịch, nhất là các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ thêm nguồn lực tài chính mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư.
Do đặc thù của ngành du lịch, các doanh nghiệp du lịch ở Hà Nội phải có vị trí kinh doanh thuận tiện, gần đường giao thông, nằm trong trung tâm thành phố, trung tâm du lịch. Đây là điều kiện kinh doanh thuận lợi nhưng các doanh nghiệp du lịch này phải thuê đất hoặc phải nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá khá cao. Do đó, làm giá thành sản phẩm dịch vụ du lịch của các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn cao hơn, làm giảm khả năng cạnh tranh và làm tăng chi phí doanh nghiệp, giảm lợi nhuận sau thuế. Các doanh nghiệp du lịch đang gồng mình gánh tiền thuê đất tăng cao thì luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được áp dụng từ năm 2012 khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn. Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp hiện được tính theo biểu thuế lũy tiến: 0,03% diện tích đất trong hạn mức (m2); 0,07% phần diện tích vượt không quá 3 lần hạn mức và 0,15% phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức. Điều này khiến các doanh nghiệp du lịch khó phát triển, nhiều doanh nghiệp du lịch doanh thu không đủ bù chi phí.
Ví dụ: từ năm 2010 đến năm 2013, công ty cổ phần du lịch Kim Liên (trụ sở tại Đào Duy Anh, Phương Mai, Đống Đa) phải nộp 15.657.865.010 đồng tiền thuê đất và 330.082.200 đồng tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (theo thông báo chi cục thuế quận Đống Đa); Lợi nhuận sau thuế của công ty giảm từ 21.315.572.053 đồng năm 2012 xuống còn 14.484.903.621 đồng năm 2013, tương ứng giảm 32%. Công ty cổ phần đầu tư và phát triển du lịch Vinaconex (trụ sở tại khu đô thị Trung Hòa-Nhân Chính, Thanh Xuân), mã cổ phiếu VCR, năm 2012 lỗ 40.859.130.107 đồng, năm 2013 lỗ 35.171.561.038 đồng.
Du lịch là ngành có tính cạnh tranh cao, chủ yếu là tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tại chỗ nên cần tăng cường quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu sản phẩm với chi phí khá lớn để thu hút khách. Song các chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới, chi phí giao dịch và các chi phí khác bị khống chế để tính thuế TNDN. Đến cuối năm 2013, các khoản chi phí này bị khống chế ở mức 7% trên tổng chi phí hợp lý để tính thuế TNDN trong 2 năm đầu mới thành lập, từ năm thứ 3 trở đi không quá 5%. Thực tế, nhiều doanh nghiệp du lịch phải chi trả các khoản hoa hồng, môi giới cho các đại lý du lịch lữ hành, cho người môi giới khá cao, khoảng 10% đến 20% giá bán sản phẩm dịch vụ du lịch. Việc khống chế 5%, 7% đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp du lịch trong việc quảng bá, xúc tiến du lịch, hạn chế các doanh nghiệp du lịch tham gia các hội chợ du lịch trong nước và quốc tế.
Nhận thức được khó khăn này, sở VHTTDL Hà Nội đã đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền quảng cáo du lịch Hà Nội, tổ chức và tham gia các hoạt động xúc tiến trong nước và quốc tế nhằm thúc đẩy du lịch phát triển như:Tổ chức Năm du lịch quốc gia 2010 tại Hà Nội với 2 sự kiện lớn là liên hoan du lịch Quốc tế Thăng Long - Hà Nội 2010 và liên hoan ẩm thực Hà Thành; Phối hợp với các thành phố thành viên trong mạng lưới các thành phố Châu Á thế kỷ 21 (ANMC21) và CPTA hỗ trợ Hà Nội trong việc xúc tiến quảng bá các sản phẩm du lịch và chương trình Năm Du lịch Quốc gia 2010; Tổ chức chương trình xúc tiến du lịch tại Hội chợ Văn hoá - Du lịch tại thành phố Côn Minh - Trung Quốc từ ngày 28/4 đến 04/5/2012; Tổ chức Liên hoan du lịch làng nghề truyền thống Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông Hồng diễn ra từ ngày 8/10 - 12/10/2013 tại Cung Thể thao tổng hợp Quần Ngựa Hà Nội; Hoàn thành chương trình triển lãm giới thiệu Du lịch Hà Nội tại Tuần Văn hoá, Du lịch Vĩnh Phúc, Hội chợ Thương mại Du lịch Tịnh Biên - An Giang, Hội chợ Du lịch quốc tế biển Nha Trang - Khánh Hòa, Tuần Văn hóa Du lịch đồng bằng sông Hồng - Hải Phòng, Festival Di sản Quảng Nam 2013, Hội chợ Thương mại và Du lịch tại Lạng Sơn, Tuần lễ Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam…
Năm 2006, thành uỷ đã ban hành chương trình 07 “Phát triển một số ngành dịch vụ trình độ, chất lượng cao giai đoạn 2006-2010” . Trên cơ sở đó, UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 240/2006/QĐ-UBND ngày 28/12/2006 quy định một số cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển xuất khẩu dịch vụ có lợi thế cạnh tranh trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Kết quả thành phố Hà Nội đã thu hút được 23 dự án đầu tư xây dựng khách sạn cao cấp từ 3 - 5 sao. Đến nay một số tổ hợp khách sạn đã hoàn thành đưa vào hoạt động như: khách sạn Gran Plaza, khách sạn Crowne Plaza Tây Hà Nội, khách sạn, Prestiger, khách sạn Silk Path…Năm 2008, thực hiện giảm 30% và giãn số thuế TNDN phải nộp của một số quý của năm 2008. Năm 2009, Chính phủ thực hiện lùi thời hạn nộp thuế thu nhập chín tháng cho doanh nghiệp du lịch nhằm phục vụ cho chương trình kích cầu "Ấn tượng Việt Nam". Năm 2013, miễn hoặc giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2013 cho các doanh nghiệp du lịch và thương mại.
- Thuế giá trị gia tăng:
Giai đoạn 2006-2013, nhằm mục đích kích cầu du lịch, thuế GTGT được tính theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ du lịch hoặc theo phương pháp khấu trừ đã có sự điều chỉnh. Nếu doanh nghiệp du lịch thực hiện thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp: nghị định 209/2013/NĐ-CP quy định tỷ lệ % GTGT trên doanh thu của dịch vụ lưu trú, kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ là 5%; dịch vụ ăn uống, vận tải hành khách là 3%. Trước đó, tỷ lệ này rất cao, tỷ lệ % GTGT trên doanh thu của dịch vụ lưu trú, kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ là 65%; dịch vụ ăn uống là 32% đối với ăn uống bình dân và 55% đối với ăn uống cao cấp, vận tải hành khách là 47% (quyết định số 40672 QĐ/CT-NV cục thuế Hà Nội).
Các doanh nghiệp du lịch thực hiện thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: luật thuế GTGT quy định 3 mức thuế suất 0%, 5%, 10% đối với sản phẩm, dịch vụ du lịch như sau: vận tải quốc tế 0%, hoạt động văn hóa, triển lãm, thể dục thể thao, biểu diễn nghệ thuật 5% (trước đây không chịu thuế), các sản phẩm dịch vụ du lịch còn lại 10%. Do được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, nên giá thành các sản phẩm dịch vụ du lịch giảm, kích thích tăng cầu du lịch trong nước và thu hút khách du lịch nước ngoài. Năm 2009, chính phủ phê duyệt thông tư số 13/2009/TT-BTC ngày 22/1/2009 cho phép giảm 50% thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp du lịch, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp du lịch tăng sức cạnh tranh, hội nhập với du lịch thế giới.
Tính đến cuối tháng 5/2013, Chi cục Hải quan cửa khẩu quốc tế Nội Bài, sau 11 tháng triển khai đã thực hiện hoàn thuế cho hơn 368 lượt khách nước ngoài, tổng số tiền thuế được hoàn hơn 1,37 tỷ đồng, trị giá hàng hoàn thuế hơn 17,63 tỷ đồng. Việc thực hiện hoàn thuế GTGT cho người nước ngoài đã làm tăng lượng khách du lịch đến Hà Nội, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam ra nước ngoài, quảng bá văn hoá Việt Nam.
- Thuế xuất nhập khẩu:
Hiện nay, các doanh nghiệp vận tải du lịch ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung khi mua xe chở khách du lịch nhập khẩu phải chịu các loại thuế như xe cá nhân, ở mức 70%. Điều này khiến cho giá tour du lịch Hà Nội, giá các tour của các doanh nghiệp du lịch Hà Nội cao hơn rất nhiều so với các quốc gia khác.Giá tour cao đang làm giảm rất mạnh sức cạnh tranh của du lịch Hà Nội. Không chỉ cao với du khách trong nước mà còn cao với cả khách nội địa. Điều này khiến khách Việt Nam từ các tỉnh thành khác thường lựa chọn du lịch Thái Lan hoặc Campuchia thay vì du lịch Hà Nội.
Giá xe chở khách chất lượng châu Âu khi về nước ta quá cao nên không một doanh nghiệp du lịch nào nhập các dòng xe này về nước để phục vụ khách du lịch mà thay vào đó sử dụng dòng xe của Hàn Quốc, Đài Loan. Cụ thể: một xe chở khách chất lượng châu Âu khi nhập về Việt Nam giá thành sẽ tăng lên gần gấp ba. Và doanh nghiệp phải hoàn thành gần 10 thủ tục (thuế, hải quan, đăng kiểm…), cộng thêm khấu hao, phí bến bãi, phí đăng ký biển xe… Số tiền vốn sẽ rất lớn và bị đọng lại khiến doanh nghiệp du lịch rất khó quay vòng dòng vốn. Đọng vốn khiến việc xoay sở vốn tái đầu tư càng khó khăn với những doanh nghiệp vận tải du lịch vừa và nhỏ.Do đó, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch so với các nước trong cùng khu vực như Thái Lan và Malaysia (thường có đầy đủ các loại xe phục vụ nhu cầu đa dạng của du khách) giảm mạnh.
2 Tác động của phí, lệ phí
Việc tăng phí thăm quan một số danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa trên địa bàn Hà nội làm giá tour du lịch Hà Nội ngày một tăng, trong khi chất lượng giảm, gây khó khăn cho các doanh nghiệp lữ hành. Bởi thông thường, các doanh nghiệp lữ hành thường ký hợp đồng kỳ hạn 1-2 năm với các đơn vị quản lý điểm du lịch, tour cũng đã bán cho khách trước thời điểm thay đổi mức phí nên doanh nghiệp lữ hành phải bù lỗ. Dẫn đến hiện trạng các doanh nghiệp lữ hành đang trốn vé bằng cách dẫn khách đi chui, giảm hoặc không đưa khách đến các điểm thăm quan di tích để tiết kiệm các khoản chi phí phát sinh do trượt giá, giá vé tăng, vật giá leo thang trong khi mức giá hợp đồng dài hạn đã ký chưa thể sửa đổi.
Vận chuyển bằng đường hàng không ngày càng được cải thiện và đóng vai trò quan trọng trong phát triển du lịch. Ngoài việc tăng cường các chuyến bay, ngành hàng không đã có máy bay cho thuê phục vụ các đoàn khách du lịch cao cấp khi có yêu cầu. Phí sân bay nội địa và quốc tế điều chỉnh tăng, cụ thể: từ ngày 30/12/2012,phí sân bay các chuyến bay nội địa xuất phát từ Hà Nội là 60.000 đồng/ khách, đã bao gồm thuế GTGT (cũ 44.000đồng/khách); phí sân bay các chuyến bay quốc tế xuất phát từ Hà Nội là 16 USD/khách. Theo Quyết định 1992/QĐ-BTC của Bộ Tài chính, từ tháng 10/2014, sân bay Nội Bài khoản lệ phí tăng từ 60.000 đồng/khách lên 70.000 đồng/khách; Nhà ga T2 (nhà ga mới) tại Cảng quốc tế Nội Bài áp dụng mức phí 25 USD/hành khách.Về mức giá soi chiếu an ninh hành khách, hành lý, khi hành khách đi máy bay thông qua hãng hàng không khai thác tại Việt Nam sẽ phải thanh toán thêm 10.000 đồng với hành khách quốc nội và 1,5 USD với hành khách bay quốc tế, tăng 10% so với mức thu hiện hành. Các khoản phí tăng thêm này cộng vào vé máy bay nên giá vé các chuyến bay nội địa, quốc tế sẽ bị điều chỉnh tăng, bên cạnh đó số chuyến bay đưa vào sử dụng thất thường là gây ảnh hưởng không tốt đến chất lượng các chương trình du lịch.
Tóm lại, bên cạnh những bất cập vẫn còn tồn tại thì các chính sách về thuế, phí, lệ phí những năm qua đã góp phần quan trọng thúc đẩy du lịch Hà Nội phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Hoàng Văn Hoàn (2010), Xúc tiến đầu tư phát triển du lịch Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, luận án tiến sỹ kinh tế, đại học Thương Mại, Hà Nội.
2.Sở VHTTDL Hà Nội (2009), Báo cáo tổng kết công tác năm 2009, kế hoạch năm 2010 lĩnh vực du lịch.
3.Sở VHTTDL Hà Nội (2010), Báo cáo tổng kết công tác năm 2010, kế hoạch năm 2011 lĩnh vực du lịch.
4.Sở VHTTDL Hà Nội (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm 2011, kế hoạch năm 2012 lĩnh vực du lịch.
5.Sở VHTTDL Hà Nội (2012), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, kế hoạch năm 2013 lĩnh vực du lịch.
6. Sở VHTTDL Hà Nội (2013), Báo cáo tổng kết công tác năm 2013, kế hoạch năm 2014 lĩnh vực du lịch.
Bài viết: Phạm Thị Ngọc - Khoa Tài chính Kế toán Du lịch