Nguyên nhân và giải pháp nâng cao kỹ năng nghe - nói ngoại ngữ của sinh viên ngành Quản trị Nhà hàng và Dịch vụ ăn uống tại trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội
28/05/2017
Tóm tắt
Kỹ năng Nghe - Nói ngoại ngữ là kỹ năng quan trọng và cần thiết nhất đối với sinh viên ngành Quản trị nhà hàng và Dịch vụ ăn uống vì sinh viên chính là người trực tiếp chào đón và phục vụ khách, trong đó có khách nước ngoài. Tuy nhiên, đường hướng dạy học ngoại ngữ theo phương pháp kết hợp cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết ở Việt Nam hiện nay [5, tr30], mới chỉ phù hợp với nhóm sinh viên đã Nghe - Nói được ngoại ngữ nhưng lại là lực cản lớn đối với nhóm sinh viên chưa Nghe - Nói được ngoại ngữ, khiến cho nhóm sinh viên này thay vì được học từ vựng, ngữ pháp, đặc biệt là ngữ âm bản địa hoàn toàn bằng “tai”, lại phải học từ vựng, ngữ pháp và cả ngữ âm bằng “mắt”. Kết quả là sinh viên chậm nghe được ngữ âm bản địa, chưa hình thành được kỹ năng phản xạ đối đáp với khách nước ngoài. Chính vì vậy, nhóm sinh viên chưa Nghe - Nói được ngoại ngữ ngành Quản trị nhà hàng và Dịch vụ ăn uống, cần được học Nghe - Nói theo phương pháp tự nhiên - phương pháp dạy nghe hiểu và phản xạ đối đáp cho một đứa trẻ [5, tr434], để sinh viên sớm nghe hiểu ngữ âm bản địa và phản xạ đối đáp được ngoại ngữ với khách nước ngoài.
Từ khóa: Nghe - Nói NN, nghe hiểu và phản xạ đối đáp, môi trường ngữ âm bản địa, phương pháp kết hợp, phương pháp tự nhiên.
1. Đặt vấn đề
Trước hiện tượng khách nước ngoài phản ánh về khả năng giao tiếp tiếng Anh của người Việt Nam, trong đó có nhân viên nhà hàng [15] và thực trạng có nhiều sinh viên Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội (CĐDLHN) cảm thấy khó khăn trong việc rèn luyện kỹ năng Nghe - Nói ngoại ngữ (NN), nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài “Một số giải pháp nâng cao kỹ năng Nghe - Nói ngoại ngữ của sinh viên ngành Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống tại Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội”. Trong khuôn khổ của đề tài, nhóm nghiên cứu đã thu thập tài liệu, tham khảo kinh nghiệm của một số Trung tâm NN ở Việt Nam, sử dụng 03 mẫu phiếu khảo sát với tổng số 310 phiếu phát ra, tổng hợp và phân tích số liệu dựa trên 270 phiếu thu về. Qua đó, đề xuất các giải pháp làm thay đổi phương pháp dạy học Nghe - Nói NN hiện nay, thực sự đem lại hiệu quả Nghe - Nói NN cho sinh viên (SV).
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Một số Mô hình đào tạo Nghe - Nói ngoại ngữ ở Việt Nam
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu và tham khảo kinh nghiệm của một số Trung tâm NN ở Việt Nam như: Apollo, Language Link, Pimsleur English, Effortless English, nhóm nghiên cứu nhận thấy ở Việt Nam hiện nay, đang có một số mô hình đào tạo Nghe - Nói NN như sau:
2.2. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến kỹ năng Nghe - Nói ngoại ngữ của sinh viên ngành QTNH&DVAU
Kết quả khảo sát thực trạng SV C11C ngành QTNH&DVAU sau khi đã học xong NN cơ bản và NN chuyên ngành tại Trường CĐDLHN cho thấy: chỉ có 22,3% SV trả lời đã Nghe - Nói được NN với khách nước ngoài, còn lại 77,7% SV trả lời chưa Nghe - Nói NN với khách nước ngoài [4, tr127]. Dựa vào các Mô hình đào tạo Nghe - Nói NN và phân tích số liệu điều tra, nhóm nghiên cứu nhận thấy SV chưa Nghe - Nói NN với người nước ngoài, phần lớn xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, SV chưa được phân loại, phải học chung một chương trình học phần (CTHP) khiến cho cả 2 nhóm SV “đã Nghe - Nói được NN” và “chưa Nghe - Nói được NN” đều không được dành 100% thời lượng để học những kiến thức phù hợp với năng lực, trình độ của SV. Cụ thể: SV “đã Nghe - Nói được NN” phải học những kiến thức sơ đẳng đã biết, đã thành thạo [2, tr1135], còn SV “chưa Nghe - Nói được NN” phải học kết hợp cả ngôn ngữ viết, phải học những kiến thức nâng cao và những bài học về nghiệp vụ bằng NN [2, tr1280]. Kết quả cho thấy đa số SV chưa nghe được ngữ âm bản địa, chưa phản xạ đối đáp được NN và đáng tiếc nhất là Nhà trường không có thêm nhiều SV thuộc nhóm “đã Nghe - Nói được NN”, đáp ứng được nhu cầu cao của các doanh nghiệp, nhà hàng lớn. Chính vì vậy, Nhà trường cần tiến hành phân loại, xếp lớp theo nhu cầu và năng lực Nghe - Nói của SV, cần xây dựng lộ trình cơ bản, chú trọng các tình huống ứng dụng thực tế để giảng dạy cho nhóm SV chưa Nghe - Nói được NN và xây dựng lộ trình nâng cao dành cho SV đã Nghe - Nói được NN.
Thứ hai, SV được học Nghe - Nói theo PPGD Nghe - Nói kết hợp cả ngôn ngữ viết (giáo án bảng) khiến cho những SV chưa Nghe - Nói được NN phải chia thời gian để học từ vựng, ngữ pháp và cả ngữ âm bằng “mắt” và ghi chép cẩn thận vào vở. Đây chính là lực cản lớn khiến SV chậm nghe được ngữ âm bản địa. Khi mà SV nghe không hiểu thì cho dù SV thuộc nhiều từ vựng cũng không phản xạ đối đáp được.
Ngoài ra, SV còn được thực hành giao tiếp NN nhưng phương pháp này chỉ giúp cho SV đối thoại được với SV trong lớp, với GVVN dựa vào từ vựng, ngữ pháp mà SV đã ghi chép được, dựa vào ngữ âm quen thuộc mà SV nghe được từ các SV trong lớp, từ GVVN chứ chưa phải dựa vào ngữ âm bản địa mà SV nghe được từ file âm thanh.
Kết quả tốt nhất của hai PPGD kể trên là SV có thể đọc tốt, viết tốt, độc thoại tốt và có thể đối thoại với SV trong lớp và với GVVN nhưng chưa tự tin đối thoại với khách nước ngoài. Do đó, SV chưa Nghe - Nói được NN cần được học NN theo phương pháp tự nhiên - phương pháp rèn luyện nghe hiểu và phản xạ đối đáp cho một đứa trẻ.
Thứ ba, ngôn ngữ nói là ngôn ngữ âm thanh nên SV chưa Nghe - Nói được NN cần được học từ vựng, ngữ pháp, đặc biệt là ngữ âm hoàn toàn bằng “tai” trong môi trường ngữ âm bản địa. Tuy nhiên, GVVN chưa thể tạo ra được môi trường ngữ âm bản địa cho SV (vì chất giọng và ngữ điệu của GVVN thường dễ nghe hơn chất giọng, ngữ điệu của người bản địa), khiến cho SV nghe nhưng chưa bắt kịp ngữ âm bản địa, chưa kịp hiểu, chưa hình thành được kỹ năng phản xạ đối đáp. Chính vì vậy, đối với nhóm SV đã Nghe - Nói được NN, GVVN có thể áp dụng phương pháp kết hợp. Nhưng đối với nhóm SV chưa Nghe - Nói được NN, GVVN cần giảng dạy kỹ năng nghe hiểu ngữ âm bản địa và phản xạ đối đáp cho SV, cần hướng dẫn SV tự tạo ra môi trường ngữ âm bản địa theo phương pháp của Pimsleur English hoặc Effortless English (Mô hình 3).
Thứ tư, SV được kiểm tra viết + trắc nghiệm ở 150 tiết NN cơ bản (nửa đầu của chương trình học) khiến cho cả giáo viên và SV phải dành thời gian để dạy và học ngôn ngữ viết, để làm bài kiểm tra viết. Đây chính là lực cản rất lớn đối với nhóm SV chưa Nghe - Nói được NN, khiến cho nhóm SV này không còn đủ thời gian để học ngôn ngữ nói, chậm nghe được ngữ âm bản địa, chậm hình thành được kỹ năng phản xạ đối đáp. Còn lại 150 tiết NN chuyên ngành (nửa cuối của chương trình học), SV được kiểm tra vấn đáp. Tuy nhiên, hình thức kiểm tra vấn đáp của GVVN không giúp Nhà trường đánh giá chính xác SV đã “Nghe hiểu và phản xạ đối đáp” được NN với khách nước ngoài chưa? Như vậy, nhóm nghiên cứu nhận thấy các phương pháp KTĐG hiện nay được áp dụng theo quy trình chưa hợp lý, ảnh hưởng rất lớn đến PPGD của giáo viên và phương pháp học của SV, đồng thời chưa mang lại hiệu quả cao trong KTĐG Nghe - Nói NN. Để đánh giá chính xác kỹ năng Nghe - Nói NN của SV với khách nước ngoài, Nhà trường cần thay đổi quy trình KTĐG và không thể không kiểm tra “Kỹ năng nghe hiểu và phản xạ đối đáp của SV” thông qua giáo viên bản địa hoặc thông qua phương tiện nghe nhìn theo phương pháp của Pimsleur English hoặc Effortless English (Mô hình 3).
Thứ năm, muốn đối thoại được NN với người bản địa, SV phải nghe được chất giọng, tốc độ, cao độ, trường độ tự nhiên của người bản địa và phải phản xạ đối đáp được với họ. Tuy nhiên, ý thức tự giác học nghe NN của SV C11C lại chưa tốt, chỉ có 13,1% SV trả lời “Thường xuyên” học nghe NN nên có tới 77,7% SV C11C trả lời chưa tự tin đối thoại được NN với khách nước ngoài [4, tr127]. Vì vậy, để giờ giảng Nghe - Nói NN trên lớp đạt hiệu quả cao, cần hướng dẫn SV tự học nghe NN hiệu quả để SV sớm nghe được ngữ âm bản địa, sớm phản xạ đối đáp được NN.
Bên cạnh các nguyên nhân kể trên còn có các nguyên nhân như: Năng khiếu của SV, điều kiện kinh tế của SV, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện dạy học NN của Nhà trường... cũng ít nhiều ảnh hưởng đến kỹ năng Nghe - Nói NN của SV. Tuy nhiên, đây lại là những nguyên nhân khó có thể thay đổi trong thời gian ngắn sắp tới. Do vậy, chúng ta cần đề xuất các giải pháp thiết thực để khắc phục các nguyên nhân chính kể trên.
2.3. Một số giải pháp nâng cao kỹ năng Nghe - Nói ngoại ngữ của sinh viên ngành QTNH&DVAU
Để SV ngành QTNH&DVAU tốt nghiệp ra trường tối thiểu phải “Làm việc được ngay” [14] và để Nhà trường có thêm nhiều SV đáp ứng được yêu cầu cao của các doanh nghiệp, nhà hàng lớn, nhóm nghiên cứu đề xuất áp dụng đồng bộ các giải pháp sau:
Giải pháp 1: Phân loại nhu cầu, năng lực ngoại ngữ của sinh viên đầu vào
Nhà trường cần phân loại và đào tạo theo nhu cầu, năng lực của 2 nhóm SV như sau:
- SV thuộc nhóm chưa Nghe - Nói được NN: Học thật kỹ lộ trình cơ bản để ra trường có thể làm việc được ngay (tối thiểu Nghe - Nói được NN ngành QTNH&DVAU tại vị trí làm việc của mình), còn những kiến thức sâu, rộng hơn, SV sẽ tự trau dồi trong quá trình làm việc hoặc quay lại trường học thêm vào thời gian phù hợp.
- SV thuộc nhóm đã Nghe - Nói được NN: Học theo lộ trình nâng cao để có thể đáp ứng được yêu cầu cao của các doanh nghiệp, nhà hàng lớn.
Giải pháp 3: Phương pháp giảng dạy NN ngành QTNH&DVAU
* Đối với SV chưa Nghe - Nói được NN: Cần Rèn luyện kỹ năng nghe hiểu và phản xạ đối đáp NN ngành QTNH&DVAU cho SV như sau:
Bước 1: Giáo viên cho nghe tổng quát cả đoạn hội thoại (số lần nghe phụ thuộc vào ý thức tự giác học nghe NN của SV, vào khả năng bắt kịp âm, phân biệt âm của SV);
Bước 2: Giáo viên cho nghe từng câu thoại và yêu cầu nhắc lại
Điều kiện: SV nghe và tự nhắc lại được câu thoại mới chuyển sang bước 3.
Bước 3: Giáo viên cho nghe câu thoại của vai khách và yêu cầu SV phản xạ đối đáp
Điều kiện: SV nghe xong bất kỳ câu thoại nào của vai khách, cần phản xạ đối đáp được câu thoại đó nhanh như câu I’m fine, thank you! khi mà SV được hỏi: How are you? vậy!
* Đối với SV đã Nghe - Nói được NN: Giảng dạy theo phương pháp kết hợp và phương pháp ngữ pháp - dịch đang thịnh hành tại Việt Nam hiện nay.
Giải pháp 4: Hướng dẫn sinh viên tự học nghe ngoại ngữ
SV thường có tâm lý vội vàng, không kiên trì học nghe NN, thường bỏ qua giai đoạn 1 và giai đoạn 2 để thực hiện luôn giai đoạn 3. Khi nghe được một lúc, thấy không hiểu gì là chán nản tắt đài đi, không nghe nữa. Do vậy, để việc giảng dạy Nghe - Nói trên lớp diễn ra hiệu quả, chúng ta cần hướng dẫn SV tự giác học nghe như sau:
Giai đoạn 1: Nghe thụ động mọi lúc mọi nơi để tai sớm nghe được ngữ âm bản địa;
Giai đoạn 2: Nghe và nhắc lại nhiều lần để tập lấy hơi, tập cơ miệng, tập nói theo đúng ngữ điệu của người bản địa trong file âm thanh;
Giai đoạn 3: Nghe hiểu và phản xạ đối đáp một cách tự nhiên với yêu cầu của vai khách trong file âm thanh.
Giải pháp 5: Kiểm tra kỹ năng nghe hiểu và phản xạ đối đáp của sinh viên ngành QTNH&DVAU
Nhà trường và Khoa NNDL có thể sử dụng phòng học đa phương tiện (Lab) để phát câu thoại của vai khách và ghi âm lại câu thoại đối đáp của SV. Sau đó, cán bộ chấm thi nghe lại và chấm điểm dựa trên góc độ đúng/sai của câu trả lời, tốc độ phản xạ và phát âm của SV. Nếu không có đủ phòng Lab thì chúng ta cần thực hiện như sau:
Bước 1: Cán bộ chấm thi cho SV nghe từng câu thoại của vai khách (trong CD);
Bước 2: SV phản xạ đối đáp với từng câu thoại đó của vai khách;
Bước 3: Cán bộ chấm thi dựa trên góc độ đúng/sai của câu trả lời, tốc độ phản xạ và phát âm của SV để chấm điểm. Trường hợp SV nghe hiểu yêu cầu của khách nhưng không phản xạ đối đáp được bằng NN nhưng thực hiện đúng yêu cầu của khách thì giáo viên chỉ chấm điểm phần nghe hiểu, không chấm điểm phần phản xạ đối đáp; Trường hợp SV không phản xạ được và cũng không hiểu đúng yêu cầu của khách thì giáo viên chấm điểm 0 câu đó.
Giải pháp 6: Áp dụng chuẩn đầu ra đối vớiSV ngành QTNH&DVAU
Kỹ năng nghe hiểu (chất giọng bản địa) và phản xạ đối đáp của SV là kỹ năng quan trọng nhất của SV ngành QTNH&DVAU, nhất là SV chưa Nghe - Nói được NN. Do vậy, Nhà trường cần sớm xây dựng Bộ công cụ đánh giá năng lực NN (có chú trọng đánh giá kỹ năng quan trọng nhất này). Trong trường hợp chưa thực hiện được thì Nhà trường cần KTĐG như sau:
- Đối với thi học kỳ:
+ Học phần Nghe - Nói: kiểm tra kỹ năng nghe hiểu và phản xạ đối đáp của SV thông qua phương tiện nghe nhìn (thay thế hình thức kiểm tra vấn đáp hiện nay)
Điều kiện phụ: Kỹ năng nghe đạt tối thiểu 70% mới vượt qua học phần Nghe - Nói
+ Đối với học phần Đọc - Viết: kiểm tra Viết + trắc nghiệm.
- Đối với thi tốt nghiệp:
+ Kiểm tra kỹ năng nghe hiểu và phản xạ đối đáp: tính trọng số 65% (để khuyến khích SV học Nghe - Nói vì tính chất công việc của SV).
+ Kiểm tra viết tự luận + trắc nghiệm: tính trọng số 35%
Kết quả tốt nghiệp: SV đạt loại Giỏi/khá/trung bình môn NN chuyên ngành.
+ Đạt điểm “Giỏi” ≈ 9 điểm trở lên: SV tự tin giao tiếp NN ngành QTNH&DVAU với khách nước ngoài.
Điều kiện phụ: Kỹ năng nghe phải đạt điểm tối thiểu 90%.
+ Đạt điểm “Khá” ≈ 7 - 8,9 điểm: SV tự tin đối thoại, đọc hiểu và hồi đáp cơ bản NN ngành QTNH&DVAU với khách nước ngoài.
Điều kiện phụ: Kỹ năng nghe phải đạt tối thiểu 80%.
+ Đạt điểm “Trung bình” ≈ 5 - 6,9 điểm: SV nghe hiểu yêu cầu của khách nước ngoài, phản xạ đối đáp được với khách bằng những câu, từ ngắn gọn, lịch sự.
Điều kiện phụ: Kỹ năng nghe phải đạt tối thiểu 70%.
3. Kết luận
Tỷ lệ SV đầu vào chưa Nghe - Nói được NN của Trường CĐDLHN hàng năm, thường chiếm tỷ lệ rất cao. Để những SV này tốt nghiệp ra trường có thể “Làm việc được ngay”, việc sử dụng phương pháp tự nhiên để giảng dạy Nghe - Nói NN thay thế phương pháp kết hợp chưa hiệu quả hiện nay, là tất yếu. Hiệu quả của phương pháp tự nhiên trong giảng dạy Nghe - Nói NN là không thể phủ nhận, được minh chứng qua các clip miêu tả các nhân vật đã sử dụng được NN như ngôn ngữ thứ 2 [12,13] và nhất là qua các clip miêu tả 4 con chim Vẹt thông minh hàng đầu thế giới, có khả năng nghe hiểu và phản xạ tiếng Anh với chủ nhân [16]. Thiết nghĩ, trẻ em, Vẹt phải biết chữ mới học được Nghe - Nói hay sao?
Do vậy, Nhà trường, cán bộ, giáo viên Khoa NNDL, nhất là SV chưa Nghe - Nói được NN cần thay đổi, đồng tâm, quyết chí hành động để sớm đạt được mục tiêu đề ra:
- SV đầu vào “đã Nghe - Nói được NN” với khách nước ngoài: Sau khi tốt nghiệp ra trường, phải tự tin đáp ứng được yêu cầu cao của các doanh nghiệp, nhà hàng lớn.
- SV đầu vào “chưa Nghe - Nói được NN” với khách nước ngoài: Sau khi tốt nghiệp ra trường, tối thiểu phải “Nghe hiểu chính xác yêu cầu của khách nước ngoài, phản xạ đối đáp thành thạo với khách hoặc tự tin biểu đạt bằng ngôn ngữ cơ thể và thực hiện đúng yêu cầu của khách”.
DANH MỤC TÀI LIỆUTHAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ tiêu chuẩn nghề Du lịch Việt Nam (VTOS phiên bản 2013), Phục vụ nhà hàng, Dự án EU, xuất bản năm 2015.
2. Chương trình đào tạo Cao đẳng, tập 2, Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội, 2013.
3. Nguyễn Thiện Giáp, Giáo trình ngôn ngữ học, Khoa Sư phạm - Đại học quốc gia Hà Nội, 2008.
4. Nguyễn Hữu Luyến, Một số giải pháp nâng cao kỹ năng Nghe - Nói ngoại ngữ của sinh viên ngành Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống tại Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội, Đề tài NCKH cấp Trường, 2016.
5. Dương Đức Niệm, Phương pháp dạy học ngoại ngữ theo đường hướng thực hành giao tiếp, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
6. Đinh Hồng Thái, Giáo trình phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non, NXB Đại học Sư phạm, 2010.
II. Tài liệu Internet
7. Bài viết: “AJ.Hoge bất ngờ với phương pháp học tiếng Anh của người Việt”