Một số vấn đề nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên
trường cao đẳng Du lịch Hà Nội
23/04/2018
Tóm tắt: Kỹ năng mềm (soft skills) (KNM) là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người như : kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng thư giãn, kỹ năng vượt qua khủng hoảng, kỹ năng sáng tạo và đổi mới... Kỹ năng mềm thường không có trong kiến thức chuyên môn nhưng lại liên quan chặt chẽ với kiến thức chuyên môn. Sinh viên cần được trang bị các KNM cơ bản để hỗ trợ trong quá trình học tập và làm việc.
Xuất phát từ những thực tế nêu trên, nhóm nghiên cứu khoa học Khoa Cơ sở ngành và Khoa Quản trị Chế biến món ăn đã chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên Khoa Quản trị Chế biến món ăn của trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội” nghiên cứu năm 2017.
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy một số vấn đề về nhận thức và nhu cầu của sinh viên cần thiết được bồi dưỡng và nâng cao một số kỹ năng mềm trong quá trình học tập trong Trường nói chung.
1. Nhận thức KNM của sinh viên
Do có nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau về KNM nên cũng có nhiều cách phân loại KNM tương ứng. Theo Tài liệu "Kỹ năng hành nghề cho tương lai" xuất bản tại Úc với sự tham gia của nhiều tổ chức chuyên môn thì cho rằng, có 8 kỹ năng hành nghề: Kỹ năng giao tiếp; Kỹ năng làm việc đồng đội; Kỹ năng giải quyết vấn đề; Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm; Kỹ năng quản lí bản thân; Kỹ năng học tập; Kỹ năng về công nghệ.
Xu hướng ngày nay, nhà tuyển dụng ngày càng coi trọng KNM, chính vì vậy mà xã hội cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày càng quan tâm đến việc đào tạo KNM cho SV. Điều đó được thể hiện thông qua nội dung chuẩn hóa đầu ra bao gồm cả chuẩn về kỹ năng cứng và KNM. Chuẩn đầu ra cho từng chuyên ngành đào tạo khác nhau. Nó tác động đến phương pháp dạy của nhà trường để có thể đào tạo những sinh viên đáp ứng đủ tiêu chuẩn đầu ra trong đó có yêu cầu về KNM. Ở một số trường, chứng chỉ KNM đã trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để SV có thể nhận bằng tốt nghiệp.
Chương trình đào tạo cùng môi trường học tập trong trường giúp các SV rất nhiều trong việc học tập và rèn luyện những KNM cần thiết. Song phần lớn chương trình đào tạo chủ yếu nhằm phát triển kiến thức chuyên ngành - “kỹ năng cứng”. Chương trình đổi mới phương pháp dạy học của ngành giáo dục đã xác định lấy người học là trung tâm nhưng cũng chưa đáp ứng được những vấn đề liên quan đến kỹ năng sống, KNM. Thực tế, việc giáo dục toàn diện cho HS, SV trong đó có KNM, ở nước ta còn rất hạn chế. Nhà trường vẫn còn quan niệm dạy học là dạy kiến thức chứ chưa dạy các em thái độ, kỹ năng ứng xử trong các mối quan hệ với con người, với môi trường thiên nhiên…2.2.2.2. Nhận thức của SV về tầm quan trọng của KNM
Thực tế cho thấy, KNM ngày càng được chứng minh có ảnh hưởng lớn đến sự thành bại trong sự nghiệp và cuộc sống của một cá nhân. Điều này cũng được thể hiện qua sự đánh giá của SV khoa QTCBMA về tầm quan trọng của KNM.
Qua khảo sát cho thấy rằng phần lớn các SV khoa QTCBMA đều đã nhận thấy vai trò quan trọng của KNM đối với các em, nhưng “Nếu em đánh giá kỹ năng mềm rất quan trọng hoặc quan trọng thì tại sao?” thì mỗi SV lại có những nhận định riêng, điều này có thể thấy rõ ở biểu đồ 2 dưới đây:
Biểu đồ 2: Lý do SV khoa QTCBMA cho rằng KNM là quan trọng
Nhìn vào biểu đồ, chúng ta có thể nhận thấy sự không đồng đều trong đánh giá, nhận định của các SV về những lý do mà các em cho rằng KNM là quan trọng.
Xây dựng một xã hội làm việc và hơn thế là làm việc chuyên nghiệp, bên cạnh kiến thức chuyên môn, chúng ta còn phải quan tâm đến việc rèn luyện các kỹ năng. Cần nhận thức rằng không chỉ người lao động cần mà từ các giám đốc điều hành, nhà quản lý… cũng rất cần rèn luyện và nâng cao kỹ năng cho bản thân. Đặc biệt với đội ngũ lao động tương lai như học sinh, sinh viên càng nên được phổ cập và hỗ trợ để tạo thành thói quen ngay khi còn trẻ. Tuy nhiên, ngay từ trên giảng đường đại học, không phải SV nào cũng được trang bị tốt các kỹ năng thiết yếu này.
2. Thực trạng KNM của sinh viên
Qua nội dung chương trình đào tạo và nội dung chương trình môn học tập trung vào kiến thức chuyên môn song, đã phần nào thể hiện được định hướng giúp các SV hoàn thiện thêm một số kỹ năng mềm phục vụ công việc trong tương lai. Tuy nhiên với thời lượng ngắn và số môn học đặc trưng về KNM còn hạn chế nên hiệu quả đem lai chưa thực sự cao như mong muốn.
Mặc dù, KNM là thuật ngữ được dùng rất nhiều trong xã hội hiện nay, tuy nhiên, các SV trường CĐDLHN nói chung và SV khoa QTCBMA nói riêng đang có những hiểu biết khá khác nhau về KNM. Với câu hỏi “Em hiểu thế nào là kỹ năng mềm”, nhóm nghiên cứu nhận được kết quả biểu đồ 3 như sau:
Biểu đồ 3: Hiểu biết của SV khoa QTCBMA về KNM
Kết quả này chỉ ra rằng hầu hết các SV đã có hiểu biết nhất định về KNM. Tuy nhiên, thuật ngữ KNM hiện vẫn còn được các SV hiểu một cách khá mơ hồ, có tới gần một nửa số SV được hỏi (49%) nhầm lẫn giữa KNM với kĩ năng giao tiếp.
Đánh giá của giáo viên về KNM của sinh viên, phản ánh đúng tình hình của SV khoa QTCBMA nói riêng và SV Nhà trường nói chung về trình độ KNM. Điều này cũng làm cho việc giảng dạy của các giáo viên Nhà trường cho các SV năm thứ nhất gặp nhiều khó khăn.
Biểu đồ 4: Đánh giá của giáo viên về KNM của SV Khoa QTCBMA năm thứ nhất
Ngày nay, có những SV khá năng động, tự tìm kiếm các cơ hội để học tập trau dồi các KNM cho bản thân. Tuy nhiên, phần nhiều các SV nói chung đã nhận thức được tầm quan trọng của KNM trong cuộc sống nhưng không phải SV nào cũng đã kịp trang bị cho mình những “vốn” KNM nhất định.
Để đánh giá trình độ KNM của SV khoa QTCBMA, nhóm nghiên cứu đã khảo sát mức độ thành thạo của những KNM cơ bản như: kỹ năng thuyết trình, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng học và tự học, kỹ năng phỏng vấn, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng thích nghi và kết quả cho thấy qua biểu đồ 5 dưới đây:
Biểu đồ 5: Mức độ thành thạo các KNM của SV khoa QTCBMA
Theo đó, ở tất cả các kỹ năng, mức độ tương đối thành thạo bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao nhất so với các mức độ khác. Nếu xếp loại theo thang Tốt – Khá – Trung bình – Yếu – Kém, thì tương đối thành thạo ở đây tương đương với mức Trung bình. Điều này chứng tỏ, dù cho các SV tự đánh giá, tự nhận xét về mức độ thành thạo của mình thì phần lớn SV cũng nhận thấy các em chỉ có thể sử dụng một cách tương đối thành thạo các KNM mà thôi. Kết quả này theo chúng tôi là khá đúng so với thực trạng của SV nói chung và của SV trường CĐDLHN nói riêng, và tất nhiên bao hàm vả SV khoa QTCBMA. Tuy nhiên, khi nhìn vào cột mức độ biểu thị sự không thành thạo các KNM của SV mà các em tự đánh giá, chúng tôi khá băn khoăn, trăn trở và rất muốn tìm ra một giải pháp nhất định nào đó càng nhanh càng tốt nhằm giúp các SV có thêm nhiều KNM cần thiết, sử dụng các KNM một cách linh hoạt, chủ động, tự tin
3. Nhu cầu nâng cao KNM của sinh viên
Kiến thức chuyên ngành mà các Nhà trường cung cấp cho SV trong quá trình học tập là yếu tố quyết định giúp các SV có thể lập nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là những kiến thức chuyên ngành đó đã đủ để giúp SV có thể vượt qua những khó khăn và thử thách trong tương lai. Chính vì thế, trong quá trình học tập, ngoài việc học các kiến thức chuyên ngành, các SV cần phải tự trang bị cho mình những kiến thức nhất định về những kỹ năng mềm cần thiết.
Đối với mức độ cần thiết của các KNM khi học ở trường (biểu đồ 6)
Biểu đồ 6: Đánh giá của SVQTCBMA về những KNM cần thiết khi học ở trường
Kết quả này cho thấy đa số sinh viên đã xác định được các kĩ năng cần thiết cho hoạt động học tập của mình đặc biệt những kĩ năng liên quan đến phương pháp học tập ở trường cao đẳng, đại học được các em lựa chọn hàng đầu. Cụ thể, Kỹ năng thuyết trình xếp vị thứ nhất, Kỹ năng học và tự học mà các SV lựa chọn. Tiếp đến là kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý thời gian,kỹ năng thích nghi, kỹ năng phỏng vấn.
Đối với mức độ cần thiết của các KNM khi đi làm:
Nếu như các kỹ năng phỏng vấn, kỹ năng thích nghi, kỹ năng quản lý thời gian được các SV cho là ít cần thiết hơn so với 03 kỹ năng còn lại khi học ở trường thì khi đi làm các kỹ năng này lại được các em đánh giá là cần thiết hơn. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong biểu đồ 7 dưới dây:
Biểu đồ 7: Đánh giá của SV khoa QTCBMA về những KNM cần thiết khi đi làm
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có tham khảo SV về “ý kiến em về việc học tập nâng cao kỹ năng mềm của bản thân” và đã nhận được bảng kết quả như trong biểu đồ 8 dưới đây:
Biểu đồ 8: Ý kiến của SV về học tập nâng cao KNM
Như vậy, hầu hết SV đều muốn rèn luyện nâng cao KNM ngay khi học ở trường. Kết quả này chứng tỏ phần lớn các em đều có nhu cầu được học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ KNM càng sớm càng tốt.
Các SV được hỏi đã có những nhận định, những ý kiến rất khác nhau về việc được tiếp nhận những kiến thức KNM trong quá trình học ở trường. Khi trả lời câu hỏi “Hình thức dạy kỹ năng mềm nào sau đây em cho là phù hợp với sinh viên ngành Quản trị CBMA?”, các em đã đưa ra các phương án trả lời như sau (biểu đồ 9):
Biểu đồ 9: Hình thức giảng dạy KNM phù hợp nhất với SV khoa QTCBMA
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát thực trạng KNM của SV khoa QTCBMA, và chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển, nâng cao KNM của SV.
Đánh giá một cách tổng thể thấy rằng SV khoa QTCBMA đã có những hiểu biết nhất định về KNM. Các em nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của KNM đối với học tập, công việc, cuộc sống và nhận định rằng KNM rất cần thiết đối với các em. Tuy nhiên, khi đi sâu phân tích từng khía cạnh cho thấy còn rất nhiều vấn đề bất cập. Trước hết, xuất phát từ chính bản thân sinh viên như mức độ thành thạo các kỹ năng cơ bản còn thấp, chưa chủ động trau dồi, rèn luyện KNM. Chủ yếu đầu tư kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp… Thứ hai, đó là những yếu tố khách quan như CTĐT, CTMH; phương pháp giảng dạy và đánh giá của giáo viên cũng như cách thức tổ chức các hoạt động của Nhà trường còn chưa hợp lý điều này cũng dẫn đến những khó khăn cho SV khi phát triển KNM. Những bất cấp trên đây đòi hỏi cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể, thiết thực giúp SV khoa QTCBMA nói riêng và SV toàn trường nói chung nâng cao trình độ KNM, đây cũng là điều kiện để nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường, nhằm đáp ứng yêu cầu cao về lao động du lịch trong giai đoạn hiện nay.
4. Một số giải pháp nâng cao KNM cho sinh viên
Việc hình thành và nâng cao KNM không giống việc dạy và học một môn học, mà nó đòi hỏi một quá trình học và luyện tập liên tục trong thời gian dài của SV và cần các giải pháp nhất định và đồng bộ giữa nhà trường, giáo viên và SV.
Đối với Nhà trường
Trong bối cảnh hiện nay, việc tăng cường và nâng cao dạy và bồi dưỡng KNM cho SV có nhiều thuận lợi. CTĐT bậc Cao đẳng và Trung cấp có sự điều chỉnh giảm lý thuyết và tăng thời lượng thực hành, thảo luận, bài tập, thí nghiệm, thực tập (cao đẳng 50-70%, trung cấp 55-75%). Đây là cơ hội tốt để kết hợp giảng dạy KNM trong các môn học. Nhà trường nên khuyến khích và có yêu cầu đối với giảng viên trong biên soạn CTMH và giảng dạy cần phải đề cập đến việc kết hợp giảng dạy các KNM phù hợp cho SV thông qua môn học.
Mặt khác, Nhà trường cần có kế hoạch bồi dưỡng phương pháp giảng dạy KNM cho giáo viên. Bởi vì, đối với giáo viên, các KNM hầu như tự tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng, nói chung vẫn còn hạn chế về nội dung và phương pháp, thiếu sự nhất quán.
Nhiều SV có nhu cầu được tham gia các khóa/lớp học về KNM một cách bài bản, vì thế Nhà trường có thể giao nhiệm vụ cho đơn vị chức năng kết hợp với trung tâm bồi dưỡng KNM để xây dựng chương trình, giới thiệu để SV đăng ký tham gia khóa học.
Nhà trường cần phối hợp với các doanh nghiệp là cơ sở thực tập của SV để nắm bắt thêm các yêu cầu về KNM đối với SV để có kế hoạch bồi dưỡng kịp thời; đồng thời, Nhà trường cũng cần đưa ra các yêu cầu đối với cơ sở thực tập rèn luyện và nâng cao các KNM cho SV. Nhờ đó, các KNM của SV sẽ cơ bản được hoàn thiện.
Đối với giáo viên
Giáo viên là người định hướng và có vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển các KNM cho SV.
Kết quả khảo sát cho thấy có 4 hình thức mà giáo viên có thể vận dụng vào giảng dạy KNM hiệu quả là: giảng dạy lồng ghép, có môn học về KNM, tổ chức các khóa học về KNM và đưa SV đi thực tế tại doanh nghiệp.
Trong giảng dạy, khi xây dựng nội dung bài giảng giáo viên cần xác định mục tiêu về rèn KNM cho SV. Chú trọng áp dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến, tích cực theo hướng tiếp cận lấy người học làm trung tâm nhằm không ngừng phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học trong việc chiếm lĩnh tri thức, đặc biệt đối với các học phần chuyên ngành.
Đối với sinh viên
Nghiên cứu trên của chúng tôi cho thấy rằng SV đã có những hiểu biết nhất định về KNM. SV có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của KNM đối với học tập, công việc, cuộc sống và nhận định rằng KNM rất cần thiết. Tuy nhiên, những hiểu biết cũng như các KNM của SV còn rất hạn chế, yếu và thiếu.
SV phải là chủ thể trong quá trình hình thành và phát triển các KNM cho mình. Nhà trường, giáo viên, bài giảng là các yếu tố môi trường, khách thể. Vì vậy, SV phải được nhận thức rõ và chủ động, tích cực lĩnh hội, trau dồi, rèn luyện các KNM. Do vậy sinh viên cần phải:
- Chủ động và tích tham gia vào các CTĐT KNM của Nhà trường cũng như các tổ chức xã hội khác.
- Tích cực thảo luận và làm việc nhóm, kỹ năng này giúp SV tiếp cận với cách trao đổi ý kiến trong nhóm, tích lũy kinh nghiệm giải quyết bất đồng cũng như kinh nghiệm lãnh đạo.
- Tham gia các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động tình nguyện bởi những hoạt động này không chỉ tạo môi trường cho SV giải tỏa căng thẳng mà còn tạo điều kiện cho các em phát triển, trau dồi đạo đức cũng như các kỹ năng cá nhân khác như kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm…
- Không ngừng học và tự học để trau dồi kiến thức chuyên môn cũng như những kiến thức bổ trợ khác như ngoại ngữ hay công nghệ thông tin… để tăng chất lượng, hiệu quả học tập cũng như công việc sau này.
Bản thân SV là người quyết định kết quả mọi quá trình nhận thức, học tập và rèn luyện.
Mặc dù việc bồi dưỡng nâng cao KNM cho sinh viên trong trường chuyên nghiệp là mới. Song, đây sẽ là một cơ hội tốt để nâng cao chất lượng đào tạo và tạo sản phẩm đào tạo khác biệt của Nhà trường, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội ./.